Trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế: 4 Điều cha mẹ nên làm
Trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) có biểu hiện rất dễ nhận biết. Khi nhận thấy con trẻ có hành vi bất thường, cha mẹ cần xử lý đúng cách và kịp thời để hạn chế biến chứng. Bởi trẻ mắc chứng bệnh này phải đối mặt với nhiều phiền toái trong cuộc sống và có nguy cơ phát triển các rối loạn tâm lý, tâm thần khác.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ là bệnh gì?
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (Obsessive Compulsive Disorder/ OCD) còn được biết đến với tên gọi rối loạn ám ảnh nghi thức. Đây là một dạng rối loạn lo âu ít gặp với tỷ lệ mắc bệnh chỉ 0.05 – 1% dân số thế giới. Bệnh lý này đặc trưng bởi tình trạng các ý nghĩ xuất hiện một cách không chủ đích, lặp đi lặp lại tạo cảm giác lo lắng, bất an, từ đó thôi thúc người bệnh thực hiện các hành vi cưỡng chế nhằm giải tỏa cảm xúc.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế khởi phát chủ yếu trong giai đoạn từ 15 – 25 tuổi. Những trường hợp khởi phát sớm hơn thường có tiên lượng xấu, bệnh tiến triển dai dẳng và gây ra nhiều biến chứng nặng nề. Chính vì vậy, rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em thường có biểu hiện nghiêm trọng và diễn tiến bệnh phức tạp hơn so với người trưởng thành.
Các triệu chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em dễ nhận biết hơn so với người lớn. Do đó, gia đình cần chú ý đến trẻ để kịp thời thăm khám và điều trị trong thời gian sớm nhất. Nếu chủ quan, trẻ lớn lên sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm lý – tâm thần và chậm phát triển về thể chất.
Nhận biết trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế đặc trưng bởi những hành vi (nghi thức) được thực hiện một cách cưỡng chế do sự xuất hiện lặp đi lặp lại của các suy nghĩ không chủ đích. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp chỉ xuất hiện ý nghĩ và người bệnh không thực hiện hành vi để giải tỏa cảm xúc.
Bố mẹ có thể nhận biết trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế thông qua các dấu hiệu sau:
- Cả người lớn và trẻ mắc chứng bệnh này đều bị ám ảnh về việc nhiễm bẩn, nhiễm virus, nấm mốc và vi khuẩn. Ý nghĩ này lặp đi lặp lại tạo cảm giác lo lắng, căng thẳng tột độ và thôi thúc trẻ thực hiện hành vi rửa tay để giải tỏa. Ý nghĩ tái diễn nhiều lần khiến trẻ phải rửa tay hàng chục lần trong ngày gây bong tróc, kích ứng da.
- Vì lo sợ nhiễm bệnh nên trẻ có thể từ chối tham gia các trò chơi ngoài trời hoặc thân thiết với bạn bè. Ở trẻ em, những hành vi này thường không phù hợp với lứa tuổi và nếu chú ý, bố mẹ sẽ nhận thấy sự bất thường trong hành vi của con.
- Ngoài ý nghĩ lo sợ nhiễm bệnh, trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế thường lo lắng về việc bản thân để quên đồ đạc hoặc băn khoăn đã khóa cửa nhà hay chưa. Biểu hiện là trẻ thường yêu cầu bố mẹ dừng xe để kiểm tra đồ đạc trong cặp hoặc quay về nhà để chắc chắn cửa nhà đã khóa chặt. Hành vi này không chỉ xảy ra vài lần mà lặp đi lặp lại rất nhiều lần cho dù bố mẹ đã cố gắng trấn an.
- Ngoài ra, trẻ cũng bày tỏ sự nghi ngờ về việc bố mẹ quên khóa gas, khóa cửa sổ,… và yêu cầu quay trở về nhà để kiểm tra. Thậm chí khi bố mẹ bác bỏ sự nghi ngờ, trẻ có thể nổi giận và cáu gắt.
- Trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế thường yêu thích các trò chơi trí tuệ hơn là vui chơi thể chất. Đặc biệt, trẻ yêu thích trò ghép tranh, rubic hoặc các đồ chơi có hình chữ nhật, tam giác , hình tròn,…
- Rối loạn ám ảnh cưỡng chế cũng khiến cho trẻ bị ám ảnh quá mức về sự cân đối, ngăn nắp và trật tự. Trẻ có thể tự mình sắp xếp đồ đạc ngăn nắp hoặc nhờ bố mẹ nếu bản thân không có khả năng.
- Đôi khi trẻ không chỉ lo lắng cho bản thân mà còn lo lắng về sức khỏe của bố mẹ. Trẻ thường khuyên bố mẹ nên rửa tay, tắm rửa sạch sẽ vì sợ bố mẹ sẽ mắc bệnh.
- Sự ám ảnh quá mức về việc phải giữ sạch sẽ và trật tự khiến trẻ khó kết bạn. Trẻ thường đọc sách hoặc giải bài tập trong giờ ra chơi thay vì chơi đùa cùng với bạn bè.
- Một số trẻ có thể xuất hiện ý nghĩ lặp đi lặp lại về các hành vi tình dục và những ý nghĩ tục tĩu khi đến tuổi dậy thì, vị thành niên. Tuy nhiên, những ý nghĩ này không thôi thúc hành vi cưỡng chế. Dù vậy, trẻ vẫn sẽ phải đối mặt với cảm giác lo lắng, căng thẳng và khó chịu.
- Khi các ý nghĩ xuất hiện một cách cưỡng chế, trẻ sẽ bị lo âu, căng thẳng, bức bối,… Cảm xúc này ngày một tăng lên, từ đó thôi thúc thực hiện hành vi để giải tỏa (hành vi rửa tay, sắp xếp lại đồ vật, kiểm tra kỹ việc đã làm,…). Khi thực hiện hành vi cưỡng chế, cảm giác lo âu và căng thẳng sẽ giảm đi nhưng trẻ hoàn toàn không cảm thấy hài lòng hay vui vẻ.
- Các suy nghĩ ám ảnh và hành vi cưỡng chế do bệnh lý này gây ra chiếm ít nhất 1 giờ/ ngày và kéo dài trong ít nhất 6 tháng.
- Các ám ảnh cưỡng chế ở trẻ có thể thay đổi theo thời gian và thường tăng lên về mức độ.
Người lớn thường nhận biết được sự thừa thãi trong hành vi cưỡng chế. Tuy nhiên, trẻ em có thể không ý thức được tình trạng này. Trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế có nguy cơ cao bị rối loạn TIC và rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Các bệnh lý này có thể xảy ra trước, đồng thời hoặc sau khi các biểu hiện của OCD khởi phát.
Nguyên nhân gây rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là một dạng rối loạn lo âu ít gặp và tỷ lệ trẻ mắc bệnh rất thấp. Hiện nay, căn nguyên và cơ chế bệnh sinh vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Dù vậy, những nỗ lực nghiên cứu đã xác định được một số yếu tố có thể gia tăng nguy cơ mắc bệnh như:
- Di truyền và yếu tố gia đình: Các nghiên cứu cho thấy, trẻ được sinh ra bởi bố hoặc mẹ bị OCD sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 4 lần. Ngoài ra, việc sống chung với người thân bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế (dù không cùng huyết thống) cũng gia tăng nguy cơ mắc bệnh. Nguyên nhân là do trẻ bắt chước suy nghĩ, hành vi, cảm xúc và phản ứng của người bệnh.
- Khác thường trong cấu trúc của não bộ: Khi chụp cắt lớp phát xạ não bộ của người bị OCD, các bác sĩ phát hiện cấu tạo não bộ có một số điểm khác biệt như hạch đáy não tăng hoạt động, thùy trán tăng hoạt động và nhân đuôi hai bên giảm kích thước,… Phát hiện này cho thấy vai trò của cấu trúc não bộ trong cơ chế bệnh sinh của OCD.
- Mất cân bằng các yếu tố nội sinh: Não bộ sản sinh các yếu tố nội sinh chi phối cảm xúc, hành vi, tư duy và điều phối hoạt động của các cơ quan trong cơ thể. Tuy nhiên, vì một số lý do, các yếu tố nội sinh bị rối loạn dẫn đến những bất thường trong suy nghĩ, cảm xúc và hành vi. Ở bệnh nhân bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế, các bác sĩ nhận thấy sự sụt giảm đáng kể của serotonin.
- Yếu tố tâm lý xã hội: Ngoài những yếu tố trên, rối loạn ám ảnh cưỡng chế cũng có liên quan đến một số sự kiện xảy ra trong cuộc sống như bị bạo hành tinh thần, thể xác, bạo lực học đường, trải qua tai nạn thảm khốc, người thân qua đời đột ngột,…
- Do nhiễm trùng liên cầu: Khoảng 5% trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế có liên quan đến nhiễm trùng liên cầu. Vi khuẩn liên cầu thường gây viêm họng và nổi ban đỏ. Nếu không điều trị sớm, vi khuẩn sẽ phát triển và xâm nhập vào não bộ gây ra phản ứng miễn dịch (PANDAS). Lúc này, các kháng thể có thể tấn công vào hạch nền não bộ gây ra sự rối loạn và kết quả là làm khởi phát rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
Các chuyên gia nhận thấy, biểu hiện của OCD sẽ khởi phát sau khi trẻ trải qua sang chấn tâm lý như mất người thân, chuyển môi trường sống đột ngột, bị tẩy chay, cô lập, bố mẹ ly dị,… Tuy nhiên, sang chấn tâm lý được xem là yếu tố khởi phát bệnh, không phải là căn nguyên gây bệnh.
Hậu quả của rối loạn ám ảnh cưỡng chế với trẻ em
Tương tự như người trưởng thành, trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế sẽ phải đối mặt với nhiều ảnh hưởng nặng nề. Hơn nữa, trẻ khởi phát OCD trước 15 tuổi thường có diễn biến bệnh phức tạp và tiên lượng xấu. Nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời, cả sức khỏe và cuộc sống của con trẻ đều phải đối mặt với những biến chứng nghiêm trọng.
Hậu quả của rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em:
- Các hành vi thừa thãi do rối loạn ám ảnh cưỡng chế như rửa tay thường xuyên, tắm rửa nhiều lần, kiểm tra liên tục những việc mình đã làm,… khiến trẻ lãng phí thời gian và ảnh hưởng nhiều đến việc học.
- Một số trẻ còn có những hành vi cưỡng chế tác động tiêu cực đến sức khỏe như cắn móng tay liên tục, cào cấu, nhổ tóc,…
- Các ý nghĩ lặp đi lặp lại và tái diễn gây ra cảm giác lo âu, bồn chồn và bứt rứt. Về lâu dài, trẻ dễ bị stress, trầm cảm và tâm trạng bất ổn, dễ gắt gỏng, cáu kỉnh.
- Vì bị chi phối bởi những ý nghĩ xuất hiện không chủ đích nên trẻ sẽ gặp khó khăn trong việc tập trung và ghi nhớ. Những trẻ bị OCD thường có kết quả học tập kém và hay bị nhắc nhở trong giờ học – đặc biệt là những trường hợp mắc đồng thời với rối loạn TIC và rối loạn tăng động giảm chú ý.
- Trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế còn gặp khó khăn trong việc kết bạn và hòa nhập do ám ảnh bởi việc nhiễm virus, vi khuẩn,… Ngoài ra, với độ tuổi còn nhỏ, những trẻ đồng trang lứa thường không giữ được sự trật tự và chưa ý thức được việc vệ sinh cá nhân. Điều này khiến cho trẻ bị OCD không có nhu cầu kết bạn.
- Rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em còn ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách. Thậm chí, một số trẻ khi lớn lên có những nghi thức và ý nghĩ kỳ dị. Những trường hợp này thường gặp khó khăn khi tìm kiếm việc làm, khó kết hôn và sống tách biệt với xã hội.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) ở trẻ em là dạng rối loạn lo âu ít gặp. Dù vậy, bệnh lý này gây ra những ảnh hưởng nặng nề đối với tâm lý, thể chất và cuộc sống của trẻ. Nếu nhận thấy con trẻ có biểu hiện bất thường, gia đình cần có biện pháp khắc phục sớm để giảm thiểu ảnh hưởng của bệnh.
Cha mẹ cần làm gì khi trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế?
Người lớn có tính cách cầu toàn, sạch sẽ sẽ có những biểu hiện khá giống với rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Trong khi đó, những biểu hiện của OCD ở trẻ em dễ nhận biết hơn vì hành vi sạch sẽ, lo lắng nhiễm bệnh và ngăn nắp quá mức không phù hợp với lứa tuổi.
Hiện nay, hiểu biết về rối loạn ám ảnh cưỡng chế còn khá hạn chế. Do đó, nhiều bậc cha mẹ không biết xử lý như thế nào khi con trẻ có biểu hiện của OCD. Thông tin sau sẽ giúp bố mẹ có hướng xử lý đúng đắn và kịp thời:
1. Cho con đến gặp bác sĩ
Khi con có biểu hiện của rối loạn ám ảnh cưỡng chế, bố mẹ nên đưa trẻ đến gặp bác sĩ. Hiện tại, các bệnh viện nhi đều có phòng khám tâm lý nên bố mẹ có thể dễ dàng đưa trẻ đến khám chữa bệnh.
Để chẩn đoán OCD, bác sĩ sẽ khai thác triệu chứng, tiền sử cá nhân, gia đình, trắc nghiệm tâm lý và thực hiện một số chẩn đoán sàng lọc. Hiện nay, các bác sĩ đều sử dụng tiêu chuẩn ICD-10 hoặc DSM-5 để đưa ra chẩn đoán xác định cho rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
2. Can thiệp trị liệu tâm lý cho trẻ và gia đình
Với trẻ nhỏ, trị liệu tâm lý là phương pháp chính trong điều trị rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Mục tiêu của phương pháp này là giúp trẻ giảm các ý nghĩ ám ảnh và giải tỏa lo âu, căng thẳng do sự lặp đi lặp lại của các ý nghĩ xuất hiện không chủ đích. Nhờ vậy, trẻ có thể kiểm soát phần nào những hành vi cưỡng chế.
Ban đầu, trị liệu tâm lý sẽ tập trung vào việc giải tỏa căng thẳng, lo âu và cảm giác bứt rứt mà trẻ phải đối mặt. Sau đó, tiến hành các biện pháp trị liệu nhằm giảm sự xuất hiện của những ý nghĩ ám ảnh và cuối cùng là giảm tần suất của các hành vi cưỡng chế.
Tùy theo dạng ám ảnh cưỡng chế mà trẻ gặp phải, chuyên gia sẽ chỉ định phương pháp trị liệu phù hợp. Đối với trẻ bị ám ảnh quá mức về việc nhiễm bệnh và đồ đạc không ngăn nắp, chuyên gia sẽ cho trẻ tiếp xúc với những tình huống này với mức độ tăng dần nhằm giúp trẻ quen với tình huống, qua đó giảm bớt sự lo lắng về việc phải giữ cơ thể sạch sẽ, sắp xếp đồ đạc gọn gàng và ngăn nắp.
Ngoài ra, trẻ bị OCD cũng có thể lo lắng cho gia đình và yêu cầu bố mẹ thực hiện các hành vi cưỡng chế. Do đó, gia đình cũng nên tham gia trị liệu cùng để biết cách ứng xử và có lời nói phù hợp trong hoàn cảnh này. Hơn nữa, gia đình cùng tham gia trị liệu sẽ giúp trẻ có cảm giác an tâm và tránh có những suy nghĩ như bản thân mắc bệnh tâm lý, khác thường và kỳ dị so với mọi người.
3. Hướng dẫn và kiểm soát việc dùng thuốc của trẻ
Thực tế, việc dùng thuốc không mang lại hiệu quả cao trong điều trị rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Hơn nữa, trẻ em có thể gặp phải một số tác dụng phụ khi điều trị dược lý nên lựa chọn ưu tiên luôn là trị liệu tâm lý. Tuy nhiên, với trẻ từ 12 tuổi có biểu hiện lo âu và căng thẳng quá mức, bác sĩ có thể chỉ định dùng một số loại thuốc.
Trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế thường được chỉ định dùng thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs) bởi đây là nhóm thuốc an toàn và mang lại hiệu quả khá cao. Trong đó thông dụng nhất là Fluoxetine, Sertraline và Fluvoxamine.
Trong thời gian đầu, trẻ có thể bị kích động và khó kiểm soát cảm xúc. Vì vậy, gia đình cần hỗ trợ trẻ trong quá trình điều trị và kiểm soát việc dùng thuốc để chắc chắn trẻ không sử dụng quá liều.
4. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ
Hiện tại, các phương pháp điều trị rối loạn ám ảnh cưỡng chế chỉ có thể giảm phần nào triệu chứng và nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần cho bệnh nhân. Như đã đề cập, trường hợp bệnh khởi phát sớm trước 15 tuổi thường có tiên lượng xấu và tiến triển dai dẳng. Để giúp trẻ vượt qua chứng bệnh này, gia đình cần thực hiện thêm một số biện pháp hỗ trợ như:
- Trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế rất dễ bị stress và trầm cảm do sự xuất hiện không chủ đích, tái diễn của các ý nghĩ. Do đó, gia đình cần khuyến khích trẻ vui chơi, vẽ tranh,… để giải tỏa căng thẳng.
- Ban đầu, nên cho trẻ vui chơi trong nhà, sau đó cho trẻ chăm sóc cây cối và thú cưng để trẻ giảm bớt nỗi ám ảnh về việc nhiễm bệnh. Khi con đã thoải mái hơn, có thể cho trẻ vui chơi ngoài trời và kết bạn với những trẻ đồng trang lứa.
- Khi trẻ bày tỏ sự lo lắng về việc bố mẹ sẽ nhiễm bệnh nếu không rửa tay thường xuyên, gia đình nên làm theo những gì trẻ yêu cầu. Sau đó, giáo dục để hiểu rằng cơ thể có các tế bào miễn dịch có khả năng tiêu diệt vi khuẩn. Việc tiếp xúc với bụi bẩn sẽ giúp hệ miễn dịch hoạt động và khỏe mạnh hơn. Như vậy có thể hạn chế được tâm trạng cáu kỉnh, gắt gỏng và giúp trẻ ý thức về hành vi thừa thãi của mình.
- Xây dựng chế độ ăn uống và sinh hoạt khoa học để trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn trí não. Ngoài ra, nên khuyến khích trẻ tập thể dục và chơi thể thao nhằm nâng cao sức khỏe, giảm stress và lo âu.
- Cho trẻ nghe nhạc, vẽ tranh, học đàn hoặc bất cứ bộ môn nào mà trẻ yêu thích. Bởi các nghiên cứu được thực hiện đều cho thấy, nghệ thuật tác động tích cực đến não bộ và có thể làm giảm các triệu chứng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
Trẻ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Vì vậy, trẻ rất cần sự quan tâm và hỗ trợ từ gia đình. Nếu được chăm sóc và điều trị tích cực, sức khỏe và chất lượng cuộc sống của con sẽ được cải thiện đáng kể.
Có thể bạn quan tâm
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!